Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.
Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái.
Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng
với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột
quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn
Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng
trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái
bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát
đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận
lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm
quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột
quyền lực.
Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc
thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng
rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai
bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó
là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội
hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu
và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.
Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ
mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm
sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất
sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát,
tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng
nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn
xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý
hơn người” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả
Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất
chúng).
Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình,
càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn
và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh
ngộ gian nan. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ
của Kình dương và Linh tinh” (Thất
sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn
sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận
tiền” (Thất sát trùng phùng tứ
sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).
Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát
tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình
dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân
còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương
Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất
sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp
Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở
biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu
niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất
sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an
ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất
sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ
hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.
Phàm các thuyết liên quan đến việc
Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ
Sát và Địa không, Địa kiếp.
Thất sát được cách nổi tiếng nhất
là “Hùng tú kiền nguyên”, tức
là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở
Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở
cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất
lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh
lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở
Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp
phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu
lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc,
Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của
Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn đầu
cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến
là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là
Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị
mất điều hòa.
Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối
diện có “Tử vi Thiên phủ”, gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất
sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ” gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều
đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn
chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh
chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề
sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.
Bất kể là nhập cách hay không nhập
cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều
sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải
trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn
khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần
phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ
may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn,
Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực,
nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.
Khi đánh giá tình huống cát hung
của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình
khắc” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn
và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô
tịch.
Thất sát tối kị Kình dương Đà la,
cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ
nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la,
tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm
tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa”
ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị
thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc
đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu
này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa
học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.
Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ
về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này,
rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên
tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu
gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát
khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn
để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh
đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh
hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc,
Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên
khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao
trong xã hội.
“Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở cung
Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn
có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng
“Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có
thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi),
gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát
có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.
Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ
đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung
kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần
phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.
Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ,
sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất
sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp
“Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.
Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở
Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có
“Thất sát Liêm trinh”, cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp
“Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.
Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở
Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi
Thất sát” đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử
vi, Thất sát, Thiên phủ”.