Bài Kinh dạy về Nghiệp

Nghiệp và Nhân quả |
10 Tháng 10
Bài Kinh dạy về Nghiệp

Kinh Cūḷakammavibhaṅgasutta

Tích chuyện cậu Subha

Cậu Subha là con trai của phú hộ Todeyya. Trong kinh thành Sāvatthi, phú hộ Todeyya có của cải đến 87 koṭi (870 triệu), nhưng ông nổi tiếng là người keo kiệt bủn xỉn trong của cải tài sản của mình. Tuy ông được sinh ra trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, nhưng ông không từng làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật dù chỉ là một muỗng cháo, một vá cơm.

Đến lúc lâm chung, ông phú hộ Todeyya có tâm tham luyến tiếc của cải tài sản ấy, cho nên sau khi chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh làm con chó trong nhà cũ của ông. Con chó được cậu Subha hết mực thương yêu, hễ cậu dùng món ăn nào thì nó cũng được ăn món ăn ấy; nó còn được cậu bồng ẵm cho nằm trên giường sang trọng.

Canh chót đêm ấy, sau khi xả đại bi định, Đức Thế Tôn quán xét chúng sinh nên tế độ, thì thấy con chó trong nhà cậu Subha. Ngài quán xét thấy rõ con chó ấy vốn tiền kiếp là ông phú hộ Todeyya; vì tâm luyến tiếc của cải tài sản lúc lâm chung, cho nên sau khi chết, ác nghiệp cho quả tái sinh làm con chó trong nhà của ông.

Buổi sáng ngày hôm sau, Đức Thế Tôn đi khất thực đến đứng trước biệt thự của cậu Subha. Nhìn thấy Đức Thế Tôn, con chó chạy ra sủa. Khi ấy, Đức Thế Tôn gọi nó Todeyya, tên tiền kiếp của nó, nó tủi phận chạy vào nhà nằm trên đống tro bên cạnh bếp lò.

Đó là nguyên nhân khiến cậu Subha tìm đến gặp Đức Thế Tôn vấn đạo.

Sau khi lắng nghe Đức Thế Tôn giải đáp những điều thắc mắc của mình, cậu Subha phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo rồi xin thọ phép quy y Tam Bảo. Còn con chó sau khi chết, ác nghiệp lại cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci.

Nhân duyên Đức Phật thuyết bài kinh Cūḷakammavibhaṅgasutta

Đức Thế Tôn quán xét thấy rõ cậu Subha sẽ xin thọ phép quy y Tam Bảo, cho nên, buổi sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn ngự đi khất thực đến đứng trước biệt thự của cậu Subha. Khi ấy, cậu Subha đi vắng, con chó nhìn thấy Đức Thế Tôn nó chạy ra sủa. Đức Thế Tôn gọi tên con chó rằng:

- Này Todeyya, ngươi không biết thân phận làm chó của ngươi, mà còn sủa Như Lai nữa. Kiếp sau ngươi còn phải tái sinh trong đại địa ngục Avīci.

Nghe Đức Thế Tôn truyền như vậy, con chó vô cùng khổ tâm, cúi đầu chạy vào nhà và đến nằm chỗ đống tro gần bếp. Những người trong nhà không một ai có thể bồng nó lên nằm trên giường sang trọng của nó.

Cậu Subha trở về nhà nhìn thấy con chó đáng yêu của mình nằm chỗ đống tro gần bếp, nên hỏi rằng:

- Ai đem con chó xuống nằm chỗ này vậy?

Những người trong nhà thưa rằng:

- Thưa cậu chủ, không có ai bồng nó xuống nằm chỗ ấy. Nó tự đến nằm, chúng tôi đã cố gắng bồng nó lên nằm trên giường, nhưng nó không chịu.

- Thưa cậu chủ, nguyên do sự việc xảy ra như vầy:

Sáng nay, Samôn Gotama đi khất thực đến đứng trước cổng nhà, con chó nhìn thấy Samôn Gotama, nó chạy ra sủa thì Samôn Gotama truyền rằng:

“Này Todeyya, ngươi không biết thân phận làm chó của ngươi sao, mà còn sủa Như Lai nữa. Kiếp sau ngươi còn phải tái sinh trong đại địa ngục Avīci”.

Nghe như vậy, con chó vô cùng đau khổ chạy vào nhà và đến nằm trên đống tro gần bếp.

Nghe người nhà thuật lại như vậy, cậu Subha nổi giận nói rằng:

- Thân phụ của ta đã tái sinh lên cõi Phạm thiên, làm gì có con chó tên Todeyya. Nhưng tại sao Samôn Gotama gọi con chó bằng tên thân phụ của ta. Samôn Gotama chỉ nói nhảm mà thôi.

Cậu Subha muốn tìm đến Đức Thế Tôn để hăm dọa Ngài, vì lời nói của Ngài. Cậu Subha liền đi thẳng đến ngôi chùa Jetavana gặp Đức Thế Tôn để hỏi rõ những sự việc xảy ra có đúng như những người trong nhà thuật lại hay không?

Đức Thế Tôn xác nhận đúng sự thật như vậy, rồi Ngài hỏi cậu Subha rằng:

- “Này Subha, những thứ của báu mà cha của con đã chôn giấu nơi nào, ông có nói cho con biết hay không?”

Nghe Đức Thế Tôn hỏi như vậy, cậu Subha liền phát sinh tâm tham những thứ của báu ấy, nên tâm không còn tức giận nữa, mà từ tốn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Samôn Gotama, cha của con chôn giấu những thứ của báu như: Những thỏi vàng đáng giá 100 ngàn kahāpana, đôi dép bằng vàng đáng giá 100 ngàn kahāpana, và nhiều báu vật vô giá khác… ở chỗ nào, mà cha của con không nói cho con biết. Nay cha của con đã chết rồi thì làm sao con có thể biết được? Bạch Ngài.

- Này Subha, con trở về nhà, cho con chó ăn món cơm nấu bằng sữa tươi với nước mía… rồi bồng ẵm nó lên nằm trên giường. Khi nó vừa bắt đầu ngủ, con vỗ về hỏi nó về những thứ của báu chôn giấu chỗ nào. Nó sẽ chỉ chỗ ấy cho con biết.

Cậu Subha phát sinh tâm tham hoan hỷ nghĩ rằng:

“Nếu có thật thì ta được những thứ của báu ấy. Nếu không có thật thì ta sẽ trở lại để hăm dọa Samôn Gotama vì lời nói của Ngài”.

Cậu Subha làm theo lời chỉ dẫn của Đức Thế Tôn, con chó thức dậy, nhảy xuống giường vừa chạy vừa kêu, đến chỗ chôn giấu những thứ của báu, nó lấy chân cào chỗ ấy. Cậu Subha đào xuống đất và gặp được những báu vật của người cha đã chôn giấu, mà cậu không biết.

Được những thứ báu vật ấy, cậu Subha phát sinh tâm vô cùng hoan hỷ, đồng thời phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Thế Tôn - Bậc Toàn Giác biết rõ mọi điều, mà những người khác không có một ai biết được như Ngài.

Cậu Subha đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, cậu đặt 14 câu hỏi, bạch hỏi Đức Thế Tôn, kính xin Ngài giải đáp những câu hỏi ấy.

Đó là nguyên nhân mà Đức Thế Tôn thuyết bài kinh Cūḷakammavibhaṅgasutta.

Nội dung bài kinh Cūḷakammavibhaṅgasutta

Con là Ānanda, được nghe bài kinh Cūḷakammavibhaṅga-sutta từ nơi kim ngôn của Đức Thế Tôn như vầy:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, cậu Subha là con của ông phú hộ Todeyya đến hầu đảnh lễ, vấn an Đức Thế Tôn xong, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Cậu Subha con của ông phú hộ Todeyya bạch hỏi rằng:

- Kính bạch Đức Gotama, pháp nào là nhân, là duyên phân loại con người thấp hèn hoặc con người cao quý trong đời này như:

Số người chết yểu, số người sống lâu.

Số người có nhiều bệnh hoạn, số người có ít bệnh hoạn.

Số người có thân hình xấu xí, da dẻ sần sùi đáng ghê sợ; số người xinh đẹp, da dẻ hồng hào duyên dáng đáng chiêm ngưỡng.

Số người có ít quyền lực, số người có nhiều quyền lực.

Số người có ít của cải tài sản, số người có nhiều của cải tài sản.

Số người sinh trong gia đình thuộc dòng dõi thấp hèn, số người sinh trong gia đình thuộc dòng dõi cao quý.

Số người không có trí tuệ, số người có nhiều trí tuệ.

Kính bạch Đức Gotama, pháp nào là nhân, là duyên phân loại con người thấp hèn hoặc cao quý như vậy? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- “Này Subha, tất cả chúng sinh đều có nghiệp là của riêng mình, họ là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra họ, nghiệp là bà con thân quyến của họ, nghiệp là nơi nương nhờ của họ. Chính nghiệp phân loại chúng sinh thấp hèn hoặc cao quý”.

- Kính bạch Đức Gotama, con không thể hiểu rõ ý nghĩa rộng lớn của lời dạy tóm tắt ấy, bởi vì Ngài chưa phân tích giảng giải.

Kính xin Đức Gotama phân tích giảng giải rộng cho con hiểu rõ ý nghĩa của lời dạy tóm tắt ấy. Bạch Ngài.

- Này Subha, như vậy, con hãy nên chú tâm lắng nghe. Như Lai sẽ phân tích giảng giải.

Cậu Subha con của ông Todeyya cung kính vâng lời dạy của Đức Thế Tôn rằng:

Kính bạch Đức Gotama, dạ con xin vâng lời Ngài.

Khi ấy Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

1. Người chết yểu

- Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người sát hại sinh mạng của chúng sinh, là người tàn nhẫn có bàn tay đẫm máu, hăng say trong sự sát hại chúng sinh, không có lòng thương xót đến tất cả chúng sinh cùng khổ… Sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu ác nghiệp sát sinh ấy không có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), mà nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người chết yểu (do quả của ác nghiệp sát sinh trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, sát hại sinh mạng của chúng sinh, tâm tàn nhẫn, bàn tay đẫm máu, hăng say trong sự sát hại chúng sinh, không có lòng thương xót đến tất cả mọi chúng sinh cùng khổ là tạo ác nghiệp dẫn đến cho quả làm người chết yểu.

2. Người sống lâu

- Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người không sát hại sinh mạng của chúng sinh, là người tránh xa sự sát sinh, từ bỏ khí giới sát sinh, có tâm hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi, có lòng thương xót đến tất cả mọi chúng sinh cùng khổ, có tâm từ bi tế độ đến tất cả mọi chúng sinh. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sát sinh ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới, cõi trời (do nhờ thiện nghiệp mà họ đã tạo trong kiếp trước).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu thiện nghiệp không sát sinh ấy không cho quả tái sinh lên cõi trời mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người sống lâu (do nhờ quả của thiện nghiệp không sát sinh trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, không sát hại sinh mạng của chúng sinh, tránh xa sự sát sinh, từ bỏ khí giới sát sinh, tâm biết hổ thẹn tội lỗi và biết ghê sợ tội lỗi, thương xót tất cả mọi chúng sinh, tâm từ bi tế độ đến tất cả mọi chúng sinh là tạo thiện nghiệp dẫn đến cho quả làm người sống lâu.

3. Người có nhiều bệnh hoạn

- Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người thường hay hành hạ, làm khổ chúng sinh bằng tay chân, hoặc bằng cách ném đá, hoặc đánh bằng gậy gộc, hoặc bằng khí giới… Sau khi người ấy chết, ác nghiệp hành hạ làm khổ chúng sinh cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu ác nghiệp hành hạ làm khổ chúng sinh không có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), mà do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người có nhiều bệnh hoạn (do quả của ác nghiệp hành hạ, làm khổ chúng sinh trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, thường hành hạ, làm khổ chúng sinh bằng tay chân, hoặc bằng cách ném đá, hoặc đánh bằng gậy gộc, hoặc bằng khí giới… là tạo ác nghiệp dẫn đến cho quả làm người có nhiều bệnh hoạn.

4. Người có ít bệnh hoạn

- Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người không hành hạ, không làm khổ chúng sinh bằng tay chân, hoặc bằng cách ném đá, hoặc đánh bằng gậy gộc, hoặc bằng khí giới… Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không hành hạ, không làm khổ chúng sinh cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới, cõi trời.

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu thiện nghiệp không hành hạ, không làm khổ chúng sinh không có cơ hội cho quả tái sinh lên cõi trời, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người có ít bệnh hoạn (do nhờ quả của thiện nghiệp không hành hạ, không làm khổ chúng sinh trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, không hành hạ, không làm khổ chúng sinh bằng tay chân, hoặc bằng cách ném đá, hoặc đánh bằng gậy gộc, hoặc bằng khí giới… là tạo thiện nghiệp dẫn đến cho quả làm người có ít bệnh hoạn.

5. Người xấu xí, da dẻ sần sùi đáng ghê sợ

- Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người có tính hay nóng giận, thường căm tức nhiều, khi bị người khác xúc phạm dù chút đỉnh cũng phát sinh tâm sân hận, căm thù, giận dữ, gây tai hại, hành động tàn ác, biểu lộ tính hung ác. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp sân hận ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu ác nghiệp sân hận ấy không có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), mà do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người xấu xí, da dẻ sần sùi đáng ghê sợ (do quả của ác nghiệp sân hận trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính hay nóng giận, thường căm tức nhiều, khi bị người khác xúc phạm dù chút đỉnh cũng phát sinh tâm sân hận, căm thù, giận dữ, gây tai hại, hành động tàn ác, biểu lộ tính hung ác là tạo ác nghiệp dẫn đến cho quả làm người xấu xí, da dẻ sần sùi đáng ghê sợ.

6. Người xinh đẹp, da dẻ hồng hào đáng ngưỡng mộ

- Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người không hay nóng giận, tâm mát mẻ, không tức giận; khi bị người khác xúc phạm cũng không phát sinh tâm sân hận, không oán thù, không giận dữ, không gây tai hại, không hành động tàn ác, không biểu lộ tính hung ác. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sân hận ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới, cõi trời.

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu thiện nghiệp không sân hận ấy không cho quả tái sinh lên cõi trời, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người xinh đẹp, da dẻ hồng hào đáng ngưỡng mộ (do nhờ quả của thiện nghiệp không sân hận trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính không hay nóng giận, không tức giận; khi bị người khác xúc phạm cũng không phát sinh tâm sân hận, không oán thù, không giận dữ, không gây tai hại, không hành động tàn ác, không biểu lộ tính hung ác là tạo thiện nghiệp dẫn đến cho quả làm người có thân hình xinh đẹp, da dẻ hồng hào đáng ngưỡng mộ.

7. Người có ít quyền lực

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người có tính hay ganh tỵ, tỏ ra ganh tỵ, sinh tâm ganh tỵ trong lợi lộc, lễ vật, tôn kính, yêu mến, lễ bái, cúng dường của người khác. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ganh tỵ ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu ác nghiệp ganh tỵ ấy không có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), mà do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người có ít quyền lực (do quả của ác nghiệp ganh tỵ trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính hay ganh tỵ, tỏ ra ganh tỵ, sinh tâm ganh tỵ trong lợi lộc, lễ vật, tôn kính, yêu mến, lễ bái, cúng dường của người khác là tạo ác nghiệp dẫn đến cho quả làm người có ít quyền lực.

8. Người có nhiều quyền lực

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người không có tính ganh tỵ, không tỏ ra ganh tỵ, không sinh tâm ganh tỵ trong lợi lộc, lễ vật, tôn kính, yêu mến, lễ bái, cúng dường của người khác (là người có tâm hoan hỷ). Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không ganh tỵ ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới, cõi trời.

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu thiện nghiệp không ganh tỵ ấy không có cơ hội cho quả tái sinh lên cõi trời, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người có nhiều quyền lực (do nhờ quả của thiện nghiệp không ganh tỵ trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính không ganh tỵ, không tỏ ra ganh tỵ, không sinh tâm ganh tỵ trong lợi lộc, lễ vật, tôn kính, yêu mến, lễ bái, cúng dường của người khác (là người có tâm hoan hỷ) là tạo thiện nghiệp dẫn đến cho quả làm người có nhiều quyền lực.

9. Người có ít của cải

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người không bố thí cơm, nước, vải, xe cộ phương tiện, hoa, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở đến Samôn, Bàlamôn… Sau khi người ấy chết, ác nghiệp không bố thí ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu ác nghiệp ấy không có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), mà do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người có ít của cải (do quả của ác nghiệp không bố thí trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính không bố thí cơm, nước, vật thực, vải, xe cộ phương tiện, hoa, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở đến Samôn, Bàlamôn… là tạo ác nghiệp dẫn đến cho quả làm người có ít của cải (người nghèo khổ).

10. Người có nhiều của cải

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người hay làm phước bố thí cơm, nước, vải, xe cộ phương tiện, hoa, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở đến Samôn, Bàlamôn… Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp bố thí ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới, cõi trời.

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu thiện nghiệp bố thí ấy không có cơ hội cho quả tái sinh lên cõi trời, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người có nhiều của cải (do nhờ quả của thiện nghiệp bố thí trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính hay làm phước bố thí cơm, nước, vải, xe cộ phương tiện, hoa, vật thơm, vật thoa, chỗ nằm, chỗ ở đến Samôn, Bàlamôn… là tạo thiện nghiệp dẫn đến cho quả làm người có nhiều của cải (người giàu có).

11. Người sinh trong gia đình thuộc dòng dõi thấp hèn

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người có tính ngã mạn, khó dạy, không biết đảnh lễ bậc đáng đảnh lễ (như Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng…, Đức Phật Độc Giác, bậc có giới đức cao thượng…); không biết cung kính đón rước bậc đáng đón rước, không biết nhường chỗ cao quý cho bậc đáng nhường chỗ, không biết tránh đường cho bậc đáng tránh đường, không biết cung kính cúng dường bậc đáng cung kính cúng dường, không biết tôn trọng bậc đáng tôn trọng, không biết lễ bái cúng dường bậc đáng lễ bái cúng dường… Sau khi người ấy chết, ác nghiệp không tôn kính ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu ác nghiệp không tôn kính ấy không có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), mà do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ sinh trưởng trong gia đình thuộc dòng họ thấp hèn (do quả của ác nghiệp không tôn kính trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính ngã mạn, khó dạy, không biết đảnh lễ bậc đáng đảnh lễ (như Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng…, Đức Phật Độc Giác, bậc có giới đức cao thượng…); không biết cung kính đón rước bậc đáng đón rước, không biết nhường chỗ cao quý cho bậc đáng nhường chỗ, không biết tránh đường cho bậc đáng tránh đường, không biết cung kính cúng dường bậc đáng cung kính cúng dường, không biết tôn trọng bậc đáng tôn trọng, không biết lễ bái cúng dường bậc đáng lễ bái cúng dường… là tạo ác nghiệp dẫn đến cho quả làm người trong gia đình thuộc dòng dõi thấp hèn.

12. Người sinh trong gia đình thuộc dòng dõi cao quý

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người có tính dịu dàng, không ngã mạn, dễ dạy, biết đảnh lễ bậc đáng đảnh lễ (như Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng…, Đức Phật Độc Giác, bậc có giới đức cao thượng…), biết cung kính đón rước bậc đáng đón rước, biết nhường chỗ cao quý cho bậc đáng nhường chỗ, biết tránh đường cho bậc đáng tránh đường, biết cung kính cúng dường bậc đáng cung kính cúng dường, biết tôn trọng bậc đáng tôn trọng, biết lễ bái cúng dường bậc đáng lễ bái cúng dường… Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp biết tôn kính ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới, cõi trời.

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu thiện nghiệp biết tôn kính ấy không cho quả tái sinh lên cõi trời, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người sinh trưởng trong gia đình thuộc dòng dõi cao quý (do nhờ quả của thiện nghiệp biết tôn kính trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, tính dịu dàng, không ngã mạn, dễ dạy, biết đảnh lễ bậc đáng đảnh lễ (như Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng…, Đức Phật Độc Giác, bậc có giới đức cao thượng…), biết cung kính đón rước bậc đáng đón rước, biết nhường chỗ cao quý cho bậc đáng nhường chỗ, biết tránh đường cho bậc đáng tránh đường, biết cung kính cúng dường bậc đáng cung kính cúng dường, biết tôn trọng bậc đáng tôn trọng, biết lễ bái cúng dường bậc đáng lễ bái cúng dường… là tạo thiện nghiệp dẫn đến cho quả làm người trong gia đình thuộc dòng dõi cao quý.

13. Người không có trí tuệ

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người gần gũi thân cận với Samôn hay Bàlamôn mà không bạch hỏi rằng:

Kính bạch Ngài, pháp nào là pháp thiện? Pháp nào là pháp bất thiện (ác pháp)?

Pháp nào là pháp có tội? Pháp nào là pháp vô tội?

Pháp nào là pháp nên thực hành? Pháp nào là pháp không nên thực hành?

Pháp nào mà con đã thực hành rồi, sẽ đem lại sự bất lợi, sự khổ não lâu dài? Pháp nào mà đã con thực hành rồi, sẽ đem lại sự lợi ích, sự an lạc lâu dài?...

Sau khi người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu ác nghiệp ấy không có cơ hội cho quả tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), mà do nhờ thiện nghiệp khác cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người không có trí tuệ (do quả của ác nghiệp ấy trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, gần gũi, thân cận Samôn hoặc Bàlamôn mà không bạch hỏi rằng:

Kính bạch Ngài, pháp nào là pháp thiện? Pháp nào là pháp bất thiện (ác pháp)?

Pháp nào là pháp có tội? Pháp nào là pháp vô tội?

Pháp nào là pháp nên thực hành? Pháp nào là pháp không nên thực hành?

Pháp nào mà con đã thực hành rồi, sẽ đem lại sự bất lợi, sự khổ não lâu dài? Pháp nào mà đã con thực hành rồi, sẽ đem lại sự lợi ích, sự an lạc lâu dài?

Đó là ác nghiệp dẫn đến cho quả làm người không có trí tuệ (người ngu dốt).

14. Người có nhiều trí tuệ

Này Subha, trong đời này, một số người đàn ông hay đàn bà là người gần gũi thân cận với Samôn hay Bàlamôn và thường bạch hỏi rằng:

Kính bạch Ngài, pháp nào là pháp thiện? Pháp nào là pháp bất thiện (ác pháp)?

Pháp nào là pháp có tội? Pháp nào là pháp vô tội?

Pháp nào là pháp nên thực hành? Pháp nào là pháp không nên thực hành?

Pháp nào mà con đã thực hành rồi, sẽ đem lại sự bất lợi, sự khổ não lâu dài? Pháp nào mà con đã thực hành rồi, sẽ đem lại sự lợi ích, sự an lạc lâu dài?...

 

Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới, cõi trời.

Hoặc sau khi người ấy chết, nếu thiện nghiệp ấy không cho quả tái sinh lên cõi trời mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người này, thì người ấy sẽ là người có nhiều trí tuệ (do nhờ quả của thiện nghiệp ấy trong kiếp quá khứ của họ).

Này Subha, khi gần gũi, thân cận Samôn hoặc Bàlamôn và thường bạch hỏi rằng:

Kính bạch Ngài, pháp nào là pháp thiện? Pháp nào là pháp bất thiện (ác pháp)?

Pháp nào là pháp có tội? Pháp nào là pháp vô tội?

Pháp nào là pháp nên thực hành? Pháp nào là pháp không nên thực hành?

Pháp nào mà con đã thực hành rồi, sẽ đem lại sự bất lợi, sự khổ não lâu dài? Pháp nào mà con đã thực hành rồi, sẽ đem lại sự lợi ích, sự an lạc lâu dài?

Đó là thiện nghiệp dẫn đến cho quả làm người có nhiều trí tuệ.

Này Subha, tóm lại nghiệp và quả của nghiệp là như sau:

Hành ác nghiệp sát sinh, quả của ác nghiệp sát sinh là người chết yểu, trở thành người chết yểu.

Hành thiện nghiệp không sát sinh, quả của thiện nghiệp không sát sinh là người sống lâu, trở thành người sống lâu.

Hành ác nghiệp hành hạ chúng sinh, quả của ác nghiệp hành hạ chúng sinh là người có nhiều bệnh hoạn, trở thành người có nhiều bệnh hoạn.

Hành thiện nghiệp không hành hạ chúng sinh, quả của thiện nghiệp không hành hạ chúng sinh là người có ít bệnh hoạn, trở thành người có ít bệnh hoạn.

Hành ác nghiệp sân hận, quả của ác nghiệp sân hận là người xấu xí, trở thành người xấu xí, da dẻ sần sùi đáng ghê sợ.

Hành thiện nghiệp không sân hận (có tâm từ), quả của thiện nghiệp không sân hận (có tâm từ) là người xinh đẹp, trở thành người xinh đẹp, da dẻ hồng hào đáng chiêm ngưỡng.

Hành ác nghiệp hay ganh tỵ, quả của ác nghiệp hay ganh tỵ là người có ít quyền lực, trở thành người có ít quyền lực.

Hành thiện nghiệp không ganh tỵ (hoan hỷ), quả của thiện nghiệp không ganh tỵ (hoan hỷ) là người có nhiều quyền lực, trở thành người có nhiều quyền lực.

Hành ác nghiệp không bố thí, quả của ác nghiệp không bố thí là người có ít của cải, trở thành người có ít của cải (người nghèo khổ).

Hành thiện nghiệp bố thí, quả của thiện nghiệp bố thí là người có nhiều của cải, trở thành người có nhiều của cải (người giàu có).

Hành ác nghiệp khó dạy, không biết tôn kính, quả của ác nghiệp khó dạy, không biết tôn kính là người thấp hèn, trở thành người sinh trong dòng dõi thấp hèn.

Hành thiện nghiệp dễ dạy, biết tôn kính, quả của thiện nghiệp dễ dạy, biết tôn kính là người cao quý, trở thành người sinh trong dòng dõi cao quý.

Hành ác nghiệp không học hỏi về ác pháp, thiện pháp từ các bậc thiện trí, quả của ác nghiệp không học hỏi về ác pháp, thiện pháp là người không có trí tuệ, trở thành người không có trí tuệ (người ngu dốt).

Hành thiện nghiệp học hỏi về ác pháp, thiện pháp từ các bậc thiện trí, quả của thiện nghiệp học hỏi về ác pháp, thiện pháp là người có trí tuệ, trở thành người có nhiều trí tuệ.

Này Subha, tất cả mọi chúng sinh đều có nghiệp là của riêng họ, họ là người thừa hưởng quả của nghiệp của họ; nghiệp là nhân sinh ra họ, nghiệp là bà con thân quyến của họ; nghiệp là nơi nương nhờ của họ. Chính nghiệp phân loại chúng sinh thấp hèn hoặc cao quý.

Khi nghe Đức Thế Tôn truyền dạy như vậy, cậu Subha con của ông Todeyya bạch với Đức Thế Tôn rằng:

Kính bạch Đức Gotama, lời giáo huấn của Ngài rõ ràng quá!

Kính bạch Đức Gotama, lời giáo huấn của Ngài rõ ràng quá!

Kính bạch Đức Gotama, ví như lật ngửa ra vật nằm sấp, hoặc mở ra vật bị đóng, hoặc chỉ đường cho người lạc đường, hoặc rọi đèn vào chỗ tối tăm để cho người có đôi mắt sáng được nhìn thấy mọi vật như thế nào, Đức Thế Tôn thuyết pháp bằng nhiều cách cũng rõ ràng như thế ấy.

Kính bạch Đức Gotama, con thành kính xin quy y nương nhờ nơi Đức Gotama, nơi Đức Pháp và nơi chư Tỳ khưu Tăng. Kính xin Đức Gotama công nhận con là người cận sự nam đã quy y nương nhờ nơi Tam Bảo kể từ nay cho đến trọn đời.

(Xong bài kinh Cūḷakammavibhaṅgasutta)

Trích từ: http://www.trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/NghiepVaQuaCuaNghiep/Nghiep1.htm#2 

 

Tin liên quan

Đang lấy bài viết liên quan...
Đang cập nhập hóa đơn, vui lòng đợi...